1. Ngô Quyền
Với mỗi người Việt, tên tuổi Ngô Quyền không còn xa lạ. Sinh năm 898 tại Châu Đường Lâm, ông là con rể của Tiết Độ sứ Châu Đình Nghệ. Năm 937, khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám sát, Ngô Quyền dũng cảm đứng lên và dẫn quân đánh trả. Trước sự sợ hãi của Công Tiễn, ông đã đưa quân vượt sông Bạch Đằng và chiếm thành Đại La, tiêu diệt Kiều Công Tiễn năm 938.
Trận đánh nổi tiếng tại sông Bạch Đằng đã chứng minh tài năng chiến thuật của Ngô Quyền. Ông sử dụng cọc tre và tận dụng thủy triều để đánh bại quân Nam Hán. Thành công này kết thúc thời kì 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một thời đại mới cho Việt Nam.
Ngô Quyền được coi là một trong Mười Bốn Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam, và Phan Bội Châu xem ông là Tổ Trung Hưng của dân tộc Việt Nam.
Trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938
2. Lê Hoàn
Lê Hoàn, sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá (theo một thuyết, sinh ở Thanh Liêm, Hà Nam) trong một gia đình nghèo khổ. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và có nhiều chiến công khi Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước, lập nên Nhà Đinh.
Được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo tướng quân khi mới 30 tuổi, Lê Hoàn tiếp tục đóng góp cho sự thịnh vượng của nhà nước. Trong bối cảnh Đinh Toàn bị ám sát, Thái hậu Dương Vân Nga trao ngôi vua cho Lê Hoàn vì lợi ích của dân tộc. Lê Hoàn lên ngôi vua với niên hiệu là Lê Đại Hành, đặt đô tại Hoa Lư.
Lê Hoàn
3. Đinh Bộ Lĩnh
Đinh Tiên Hoàng (sinh ngày 22 tháng 3 năm 924 – mất tháng 10 năm 979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh hoặc có sách gọi Đinh Hoàn. Ông là vị hoàng đế (vua) sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam.
Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là Hoa Lư, Ninh Bình), con trai của Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, được lũ trẻ tôn làm trưởng, lấy lễ vua tôi để giúp vương. Lớn lên, ông phát triển với khí chất, tài năng và sự thông minh.
Tên ông gắn với nhiều giai thoại như đánh trận giả và câu chuyện về long mạch đất Việt. Ông đã cùng Đinh Liễn dẹp loạn, cứu nguy cho nước nhà. Năm 968, ông lên ngôi hoàng đế với hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô tại Hoa Lư, Ninh Bình.
Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh tại Hoa Lư Ninh Bình
4. Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo (chữ Hán: 陳興道; 1231 – 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn (chữ Hán: 陳國峻), tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần, sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần (德聖陳) hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế (九天武帝). Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288.
Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là ‘Trần Hưng Đạo’ thay cho cách gọi đầy đủ là ‘Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn’, vốn bao gồm tước hiệu được sắc phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Tháng 2/1984, ông được hội đồng khoa học Hoàng gia Anh xếp ông là 1 trong 10 vị tướng tài giỏi nhất thế giới. Ông được nhân dân tôn gọi là Đức Thánh Trần và đặt tượng đài tưởng nhớ ông ở nhiều nơi.
Tượng đồng vua Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo
5. Lý Thường Kiệt
Lý Thường Kiệt (chữ Hán: 李常傑; 1019 – 1105) là một danh tướng lừng danh thời nhà Lý. Ông nổi tiếng với nhiều chiến công lớn như chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075–1076) và đánh bại quân Tống xâm lược Đại Việt. Tên tuổi của ông được biết đến ở đất Tống và ông được liệt vào danh sách 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam. Con tàu USS Chincoteague (AVP-24) mang tên RVNS Lý Thường Kiệt (HQ-16) để vinh danh ông. Ông còn nổi tiếng với bài thơ Nam Quốc Sơn Hà.
Lý Thường Kiệt
6. Võ Nguyên Giáp
Võ Nguyên Giáp (1911- 2013) ra đời tại xã An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông là nhà lãnh đạo và sáng lập quân đội nhân dân Việt Nam vào ngày 22/12/1944. Năm 1954, ông lãnh đạo quân đội Việt Nam và ghi dấu ấn lịch sử với chiến thắng ở Điện Biên Phủ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của mình không chỉ trong một số trận đánh, chiến dịch mà còn trong cả hai cuộc kháng chiến đối với hai siêu cường hàng đầu thế giới là Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.
Ông cũng đóng góp quan trọng trong việc đánh bại Đế quốc Mỹ (1975), giải phóng dân tộc. Ông là một trong những tướng quân không trải qua bất kỳ trường lớp quân sự nào. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là tướng thứ hai của Việt Nam được Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh xếp vào danh sách 10 tướng giỏi nhất thế giới. Ông ra đi vào ngày 4/10/2013 tại Bệnh viện Quân y 108 Hà Nội, hưởng thọ 103 tuổi.
Bức tranh thân thiện của Đại tướng với các em nhỏ
7. Nguyễn Huệ
Quang Trung Hoàng đế (sinh năm 1753 – mất ngày 16 tháng 9 năm 1792), miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ (西山太祖; để phân biệt với Nguyễn Thái Tổ nhà Nguyễn), danh xưng khác là Bắc Bình Vương, tên khai sinh là Hồ Thơm, quê gốc Nghệ An sau đổi tên thành Nguyễn Huệ (阮惠), Nguyễn Quang Bình (阮光平), là một nhà chính trị, nhà quân sự người Việt Nam, vị hoàng đế thứ 2 của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho ông.
Nguyễn Huệ và 2 anh em của ông, được biết đến với tên gọi Tây Sơn tam kiệt, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã kết thúc cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng Nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ.
Ngoài ra, Quang Trung còn là người vượt qua các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc. Ông đã tham gia trận chiến từ khi mới 18 tuổi, trong suốt 20 năm đã trải qua nhiều trận đánh lớn và chưa từng thất bại.
Nguyễn Huệ
8. Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão (chữ Hán: 范五老; 1255 – 1320) là danh tướng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, góp phần quan trọng trong hai cuộc chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Ông nổi tiếng không kém Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam.
Trong hai cuộc chiến chống quân Nguyên (1285-1288), Phạm Ngũ Lão đạt được nhiều chiến công ấn tượng. Năm 1285, ông và Trần Quang Khải đánh bại quân Nguyên tại Chương Dương, Hàm Tử, giải phóng Thăng Long. Sau đó, ông dẫn đầu 3 vạn quân phục kích, đánh địch ở Vạn Kiếp, tiêu diệt hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (12 – 1287), Phạm Ngũ Lão và các tướng bày trận phục kích giúp quân nhà Trần bắt sống các tướng quân Nguyên. Vua Trần Nhân Tông đã trao cho ông chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Ông còn nhận được các phần thưởng quý như Kim Phù, Vân Phù, và Quy Phù.
Phạm Ngũ Lão ba lần xuất quân chống quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297, và 1301; hai lần chiến thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải đầu hàng, và 1318 vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java.
Phạm Ngũ Lão
9. Lý Ông Trọng
Theo truyền thuyết Việt Nam, trong thời Hùng Vương thứ 18, Ông Trọng có vị thế nhỏ ở huyện ấp, cao hai trượng ba thước. Ông là người cương trực, trung hậu, thương dân. Một lần, khi thấy một lính huyện ác ôn đánh dân phu dã man, ông tức giận đánh chết hắn và bị triều đình kết án tử. Tuy nhiên, vua thấy ông tài đức, khỏe mạnh nên tha cho ông. Ông từ bỏ chức vụ, đi học tập xa xôi. Đến thời Thục An Dương Vương, ông là một tướng giỏi, được cử đi sứ nước Tần.
Khi quân Hung Nô đe dọa, ông Trọng được vua Tần mời giúp trừ giặc, và ông đánh bại giặc, trấn an biên giới. Vua Tần khâm phục ông, phong làm Vạn Tín hầu và thậm chí muốn giữ ông lại làm quan lâu dài. Nhưng sau một thời gian, ông nhớ quê hương, xin về nghỉ ngơi.
Khi tin ông Trọng về nước, quân Hung Nô quay lại đánh Tần. Vua Tần lại mời ông, nhưng ông không muốn đi. Vua Thục nói rằng ông đã mất, và để giả mạo ông, vua Tần đúc một tượng đồng hình ông đặt ở cửa Kim Mã, thành Hàm Dương. Khi quân Hung Nô đến, lính Tần đẩy tượng di động, làm giặc lầm tưởng Lý Ông Trọng đã sang Tần, nên không tấn công nước này. Người Bắc thường gọi những tượng lớn như ‘Ông Trọng’.
Mỗi khi quân Hung Nô xuất hiện, lính Tần lại đẩy tượng di động, khiến giặc lầm tưởng Lý Ông Trọng đang đến. Đến đời Đức Tông nhà Đường, hai quan Triệu Xương và Cao Biền sùng bái Lý Ông Trọng, tôn xưng ông với danh hiệu cao quý là Lý hiệu úy.
Lý Ông Trọng
10. Nguyễn Chí Thanh
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (tên khai sinh Nguyễn Vịnh) sinh ra trong gia đình nông dân ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ thanh niên, Nguyễn Vịnh đã tham gia đấu tranh chống bọn cường hào và tham gia phong trào bình dân. Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng và hoạt động tích cực trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến tranh giải phóng miền Nam.
Sau chiến tranh, Nguyễn Chí Thanh giữ nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng, bao gồm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Bí thư Phân khu ủy Bình-Trị – Thiên, Bí thư Liên khu ủy Liên khu 4, Phó Bí thư Tổng Chính ủy, và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Bộ Tổng Tư lệnh. Tại Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), ông trở thành thành viên Bộ Chính trị. Ông còn đảm nhiệm Trưởng Ban Công tác Nông thôn Trung ương và Bí thư Trung ương Cục miền Nam kiêm Chính ủy các lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước, đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong giai đoạn khó khăn và quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông từ trần vào ngày 6/7/1967 sau một cơn đau tim nặng.
Nguyễn Chí Thanh và vợ
11. Phùng Hưng
Phùng Hưng xuất thân từ Đường Lâm – vùng đất cũng là quê hương của hào kiệt Ngô Quyền. Theo Việt Sử Tiêu Án, Phùng Hưng ở tuổi trẻ khỏe mạnh, sức mạnh vượt trội, có khả năng vật hổ và đánh bại đối thủ.
Trước gánh nặng của chính sách thuế nặng do nhà Đường áp đặt ở khu vực Bắc, Phùng Hưng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa. Ban đầu, họ tập trung ở Đường Lâm, sau đó mở rộng chiến đấu khắp nơi, đánh vào trụ sở đô hộ phủ ở An Nam (thủ phủ của An Nam – tên cũ của Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2). Phùng Hưng bao vây thành phố, khiến quan chức đô hộ phủ sợ đến chết. Phùng Hưng chiếm đóng thành phố, lãnh đạo quốc gia trong 7 năm trước khi qua đời. Sau cùng, ông được tôn xưng là Bố Cái Đại Vương, người đã đánh bại một trong những triều đại thịnh vượng nhất của Trung Quốc – nhà Đường.
Bố Cái Đại Vương
12. Lê Trọng Tấn
Lê Trọng Tấn tên thật là Lê Trọng Tố, quê ở Nghĩa Lộ, thôn An Định (cũ), xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), là một Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những vị tướng xuất sắc nhất của Việt Nam. Dẫn dắt quân đội chiến đấu tại Mường Thanh, bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1975. Ông còn chỉ huy các binh đoàn vào Dinh độc lập, bắt sống tướng Dương Văn Minh.
Đại tướng Lê Trọng Tấn có cuộc đời và sự nghiệp cách mạng ấn tượng với nhiều chiến công lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Những chiến dịch như Biên giới (1950), Hòa Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953), Điện Biên Phủ (1954), Đường 9 – Nam Lào (1971), Trị Thiên (1972), Đà Nẵng (1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975… đều là những dấu ấn vĩ đại của tướng Lê Trọng Tấn.
Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Tướng Lê Trọng Tấn là một trong những tư lệnh chiến dịch, chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng giỏi nhất của Quân đội ta”.